♪ Smile Always ♪
Would you like to react to this message? Create an account in a few clicks or log in to continue.



 
HomeLatest imagesSearchRegisterLog in

Share | 
 

 Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源 [1563 – 1635]

View previous topic View next topic Go down 
AuthorMessage
Mèo Âu
北公爵夫人
-鋒-

Mèo Âu

Posts : 1524
Join date : 2009-09-06

Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源 [1563 – 1635] _
PostSubject: Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源 [1563 – 1635]   Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源 [1563 – 1635] I_icon_minitime07.09.11 0:33

Sãi Vương NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
  • Tên húy: Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源
  • Ngày sinh: 16/8/1563 (28/7 Quý Hợi)
  • Là con của: NGUYỄN HOÀNG và một bà vợ họ Nguyễn
  • Thụy hiệu: HY TÔNG HIẾU VĂN HOÀNG ĐẾ
  • Thường được gọi: chúa Sãi, chúa Bụt hay Phật chúa
  • Hưởng thọ: 72 tuổi
  • Ngày mất: 19/11/1635 (10AL)


GIA QUYẾN:

- Phu nhân: Nguyễn Thị Giai, trưởng nữ của Khiêm Vương Mạc Kính Điển, người làng Nghi Dương (tỉnh Hải Dương)

 Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên có 11 công tử và 4 công nữ:

- Công tử
  1. Nguyễn Phúc Kỳ (阮福淇)
  2. Nguyễn Phúc Lan (阮福瀾)
  3. Nguyễn Phúc Anh (阮福渶)
  4. Nguyễn Phúc Trung (阮福忠)
  5. Nguyễn Phúc An
  6. Nguyễn Phúc Vĩnh
  7. Nguyễn Phúc Lộc
  8. Nguyễn Phúc Tứ (阮福泗)
  9. Nguyễn Phúc Thiệu
  10. Nguyễn Phúc Vinh
  11. Nguyễn Phúc Đôn

- Công nữ
  1. Nguyễn Phúc Ngọc Liên: Tục gọi bà là Quận Thanh, bà hạ giá lấy Trấn Biên dinh Lưu thủ Phó tướng Thanh Lộc hầu Mạc Cảnh Vinh (Nguyễn Phước vinh), con trai Khai quốc công thần Mạc Cảnh Huống, hậu duệ của Mạc Đăng Dung, ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Hữu gốc Mạc, con cháu nay đổi họ Nguyễn Trường nhập tịch ở Quảng Nam. Ông bà sinh 1 con trai là Đội trưởng Toàn Trung hầu Nguyễn Phước Tao.
  2. Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (阮福玉万) 真臘王チェイ・チェッタ2世に嫁ぐ (Tống Sơn quận chúa thụy Từ Hoan pháp hiệu Diệu Đức): Năm Canh Thân (1620) được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II.
  3. Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (阮福玉姱): năm Tân Mùi (1631) được gả cho vua Chiêm Thành là PôRôMê
  4. Nguyễn Phúc Ngọc Đỉnh (1608-1684): Bà hạ giá lấy Nghĩa quận công Nguyễn Cửu Kiều (1599-1656), con trai của Thượng tướng Nguyễn Quảng triều hậu Lê, bà sinh 5 con trai: 1.Vỵ Xuyên hầu Nguyễn Cửu Thiên, 2.Duyên Lộc hầu Nguyễn Cửu Duyên, 3.Trấn quận công Nguyễn Cửu Ứng, 4.Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Kế, 5.Cẩm Long hầu Nguyễn Cửu Thân. Khi mất bà được ban thụy là Từ Thục. Ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Cửu.
  5. Nguyễn Phúc Ngọc Hoa (?): nghĩa nữ, được gả cho thương gia người Nhật Aragi Sotaro.


- THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP

Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế húy là Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của đức Triệu Tổ Nguyễn Hoàng và Hoàng Hậu họ Nguyễn. Ngài sinh ngày 28 tháng 7 năm Quí hợi (16-8-1563).

Tương truyền rằng khi Hoàng Hậu có thai. chiêm bao thấy thần nhân cho tờ giấy viết đầy cả chữ "Phúc". Nhiều người đề nghị lấy chữ "Phúc" đật tên con thì Bà cho rằng: Nếu đặt tên cho con thì chỉ một người được hưởng phúc. Bà bèn đặt tên con là Nguyễn Phúc Nguyên, nhánh họ Nguyễn chúng ta đổi thành Nguyễn Phúc bắt đầu từ đấy.

Năm 22 tuổi (1585), lúc đang cờn làm Thế tử, ngài đánh tang hai truyền giặc biển vào đánh phá ở Cửa Việt, đức Thái Tổ cà mừng nói rằng "Con ta thực là anh kiệt".

Năm Nhâm dần (1602), ngài được cử đến trấn thủ dinh Quảng Nam.

Thán 6 năm Quí sửu (1613) đức Thái Tổ băng, các quan vâng di chiếu tôn ngài làm Thống lãnh Thủy bộ Chư Dinh kiêm Tổng Nội Ngoại Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái bảo Thụy Quân công. Bấy giờ ngài đã 51 tuổi. Vua Lê Kính Tông sắc phong ngài làm trấn thủ hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam gia hàm Thái bảo, tước Quận công.

Sau khi lên ngôi, ngài sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu đâu cũng tin phục, thời bấy giờ người ta thường gọi ngài là Chúa Sãi.

Trong các năm Giáp dần (1614) và Ất mão (1615) ngài tổ chức lại việc cai trị, đặt tam ti và các chức lệnh sử để trông coi mọi việc, định qui chế các chức vụ ở phủ huyện, phân chia ruông đất ở thôn xã v.v...

Năm Canh thân (1620) hai em của ngài là các Chưởng cơ Hiệp và Trạch thông đồn với họ Trịnh, chiếm kho Ải Tử đấp lũy Cồn Cát để làm phản. Ngài sai người đến dụ dỗ nhưng hai ông không chịu nghe. Khi hai ông Hiệp và Trạch bị Nguyễn Phúc Tuyên bắt được, ngài trông thấy chảy nước mắt nói: "Sao hai em nở trái bỏ luân thường?" Hai ông cúi đầu chịu tội. Ngài muốn tha nhưng triều thần không chịu bèn sai giam vào ngục. Ngài thấy quân Trịnh vô cớ khởi binh nên từ đấy không chịu nộp thuế cốn nữa.

Năm Tân dậu (1621) quân Man thuộc Ai Lao cướp bóc ở biên thùy, ngài sai quân đánh bắt, nhưng lấy đức cảm hóa tha cho về nên chúng cảm phục, từ đấy không quấy nhiễu nữa.

Để tỏ tình thân thiện cới lân bang, năm Canh thân (1620) ngài gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II. Năm Quí hợi (1623) một phái bộ miền Nam đi sứ quan Chân Lạp xin với vua Chey-Chetta II nhừng lại một dinh điền ở Mô Xoài gần Bà Rịa ngày nay(1), vua Chân Lạp phải bằng lòng. Ngoài ra, vua còn cho ngườiViệt đến canh tác tại vùng đó.

Năm Bính dần (1626) Dinh được dời đến làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên).

Không những có tài trị nước, ngài còn là người khiêm cung, biết giữ lễ. Như khi nghe Trịnh Tùng chết, các con tranh giành ngôi thứ, ngài báo các tướng: "Ta muốn nhân cơ hội này nổi nghĩa binh để phò Lê, nhưng đánh lúc người có tang là bất nhân, thừa lúc người lâm nguy là bất vũ. Huống chi ta với Trịnh có nghĩa thông gia." Vì vậy hào kiệt các nơi theo về với ngài rất đông: Đào Duy Từ, Nguyễn Phúc Kiều, Nguyễn Đình Hùng, Nguyễn Hữu Tấn... đều là những danh tướng văn võ toàn tài.

Năm Đinh mão (1627) Trịnh Tráng đem quân vào đánh, bị thua, phải rút về. Đến năm Kỷ tỵ (1629), Trịnh Tráng lại muốn xâm lược miền Nam bèn sai sứ vào sắc phong để có cớ tiến quân. Đào Duy Từ khuyên rằng: "Đây là họ Trịnh mượn sắc lệnh vua Lê để nhử ta...Chi bằng hảy tạm nhận cho họ không ngờ để ta lo việc phòng thủ rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì ta được nữa."

Sau đó, Đào Duy Từ hiến kế đắp các lũy Trường Dục, Nhật Lệ và Trường Sa tạo thành một thế vững chắc cho xứ Đàng Trong.

Năm Canh Ngọ (1630), Đào Duy Từ dân kế kế làm mâm hai đáy trả lại sắc cho chúa Trịnh (2) rồi khuyên ngài đánh lấy đất Nam Bố Chính (huyện Bố Trạch ngày nay) để lấy sông Gianh làm biên giới thiên nhiên cho vững cõi Nam.

Năm Tân mùi (1631) ngài gả công chúa Ngoc Khoa cho vua Chiêm là Pôrômê, nhờ đó có sự hòa hiếu giữa hai nước Chiêm, Việt.

Năm Quí dậu (1633) Trịnh Tráng rước vua Lê đem quân vào đánh nhưng bị thua phải rút về.

Năm Ất hội (1635) ngày 10 tháng 10 (19-11-1635) ngài mệt, triệu Thế Tử và Nguyễn Phúc Khê vào chầu, gởi gấm Thế Tử cho ông Khê rồi băng. Ngài ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi.

*
* *

Đức Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế là vị chúa Nguyễn thứ hai trị vì ở miền Nam.

Ngài là vị chúa đầu tiên xây dựng cơ nghiệp nhà Nguyễn với một ý chí cương quyết, tạo nên một xứ Đàng Trong độc lập tự chủ. Ngài chình đốn việc cai trị, củng cố về mặt quốc phòng, biết dùng người tài giỏi để chăm lo việc nước nên nhân dân được an cư lạc nghiệp. Nhiều lần quân Trịnh vào đánh đều ôm hận rút về.

Ngài thuộc đời thứ ba của họ Nguyễn Phúc và cũng là vị Chúa đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Ngài khai sán ta hệ III hiện nay có 2 phòng:
1. Phòng một tức là phòng Khánh Quận Công.
2. Phòng mười tức là phòng Vĩnh


- LĂNG, MIẾU THỜ VÀ CÁC TƯỚC HIỆU ĐƯỢC TRUY TÔN

Lúc đầu, lăng ngài táng tại huyện Quảng Điền (Thừa Thiên), sau cải táng về vùng núi thuộc làng Hải Cát huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Diễn. Ngài được thờ ở Thái Miếu, án thứ nhất bên tả (3).

Thế tử lên ngôi dân thụy hiệu là "Đại Đô Thống Trấn Nam Phương Tổng Quốc Chính Dực Thiện Tuy Du Thụy Dương Vương".

Đời Vũ Vương truy tôn: "Tuyên Tổ Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiệntuy Du Hiếu Văn Vương".

Năm Bính dần (1806), vua Gia Long truy tôn: "Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu Văn Hoàng Đế." Miếu hiệu là Hy Tông.


Hoàng hậu
  • Tên huý: Nguyễn Thị Giai
  • Sinh: Mậu dần (1578)
  • Thụy hiệu: Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Hậu
  • Hưởng thọ: 53 tuổi
  • Ngày mất: 9/11 Canh ngọ (12-12-1630)
  • Nơi an táng: núi Chiêm Sơn huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam

Bà húy là Nguyễn Thị Giai, sinh năm Mậu dần (1578). Bà là trưởng nữ của Khiêm Vương Mạc Kính Điển, người làng Nghi Dương (tỉnh Hải Dương). Khi thân sinh bà bị tử trận, bà theo chú (Mạc Cảnh Huống) và gia quyến vào Nam ần cư ở chùa Lam Sơn tỉnh Quảng Trị. Phu nhân ông Huống là dì của đức Hy Tông vì thế bà được tiến vào hầu ở nơi tiềm để (chỗ ở của Thế tử khi chưa lên ngôi).

Bà tính nết hiền thục, cử chỉ đoan trang, thanh nhã. Lời nói, hành động đều đúng khuôn phép nên đức Hy Tông rất thương yêu và cho đổi thành họ Nguyễn.

Bà mất ngày mồng 9 tháng 11 năm Canh ngọ (12-12-1630), thọ 53 tuổi, được truy tặng là Doanh Cơ, thụy là Nhã Tiết. Đời Vũ Vương bà được truy tôn: "Huy Cung Từ Thận Thuận Phi".

Năm Bính dần (1806) vua Gia Long truy tôn: "Huy Cung Từ Thận Ôn Thục Thuận Trang Hiếu Văn Hoàng Hậu". Lăng táng tại núi Chiêm Sơn huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Tên lăng là Vĩnh Diễn. Bà được phối thờ với Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế tại Thái Miếu.
Back to top Go down
http://dinhphong.forumn.org/
 

Nguyễn Phúc Nguyên | 阮福源 [1563 – 1635]

View previous topic View next topic Back to top 
Page 1 of 1

Permissions in this forum:You cannot reply to topics in this forum
♪ Smile Always ♪ :: Lịch sử và Thần thoại :: Việt Nam-

Smile Always♪
http://meoau.ace.st
Copyright © 2009

Create free forum | ©phpBB | Free forum support | Report an abuse | Forumotion.com